Sài Khao sương tỏa hùng Tây Tiến

(TTXuân) - Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!/ Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi/ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/ Mường Lát hoa về trong đêm hơi...

< Mây núi Sài Khao...

Những câu thơ trong bài Tây Tiến bi hùng của Quang Dũng cách nay 65 năm về “đoàn quân không mọc tóc” cứ thôi thúc chúng tôi. Một ngày cuối đông, chúng tôi vác balô ngược dòng “sông Mã gầm lên khúc độc hành” từ Thanh Hóa trực chỉ Mường Lát. Sương mù dày đặc, xe len trong sương mà đi.

Vực sâu ngàn thước

Sau bảy tiếng đồng hồ qua quốc lộ 47, đường Hồ Chí Minh, quốc lộ 15A rồi tỉnh lộ 520, qua các huyện Đông Sơn, Triệu Sơn, Thọ Xuân, Ngọc Lặc, Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hóa sau khi băng qua 250km đường sá cheo leo trầy trật, xe chúng tôi đặt chân lên thị trấn Mường Lát.

Thị trấn nằm trên đỉnh núi, dưới khe sâu con sông Mã oai hùng thét gào đỏ ngầu phù sa. Bữa cơm tối ở quán cơm Hải Muối, bà chủ quán làm cho tô canh cá măng nấu mẻ chua với cọng dọc mùng (miền Nam gọi là bạc hà hoặc cọng môn theo cách gọi miền Trung) húp xì xụp trong cái lạnh cuối đông, hơi khói mịt mù phà từ mũi miệng. Anh lái xe Lương Văn Tiệu giới thiệu: cá lăng sông Mã ngon nhất nước!

< Đường lên Mường Lát...

Mường Lát có 7.161 hộ với 35.000 nhân khẩu. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo đã giảm so với năm trước nhưng trong năm 2012 vẫn còn 49,4% hộ nghèo. Toàn huyện có sáu dân tộc anh em: Mông, Thái, Mường, Dao, Khơ Mú và ít nhất là người Kinh.

Mường Lát nằm bên dòng sông Mã nổi tiếng với câu Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Sông Mã có hai nguồn chính, nguồn thứ nhất từ phía nam tỉnh Điện Biên chảy qua huyện Sông Mã của tỉnh Sơn La rồi qua lãnh thổ Lào, sau đó đổ về Thanh Hóa. Tại đây sông chảy qua các huyện phía bắc của tỉnh, hội lưu với sông Chu rồi đổ ra vịnh Bắc bộ theo hai nhánh cửa Lạch Hới và Lạch Sung. Phù sa sông Mã là nguồn chủ yếu tạo nên đồng bằng Thanh Hóa lớn thứ ba ở Việt Nam.

< ... và đường lên Sài Khao.

Sáng sớm khởi hành đi Sài Khao. Cách Mường Lát chỉ 20km nhưng ngay cả cư dân bản địa ở đây nhiều người không biết đường đi Sài Khao. “Là vì đường hiểm trở, không có đường ôtô, chỉ có thể đi xe máy hoặc đi bộ”, anh bạn trẻ dẫn đường người Thái tên Hoàng Văn Nhiệm cho biết. 20km đường đi Sài Khao, chúng tôi lần đầu hiểu thế nào là liều mạng.

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi…

Những con dốc dựng ngược trong bài Tây Tiến ngày xưa dành cho đội quân chân đất ngay trước mắt. Xe máy cài số một, mệt nhọc rú rít giật cục từng cơn bò trên con đường đất lẫn đá nhơm nhớp sương mai trơn trượt và chỉ rộng chừng 30cm. Nhiều đoạn chỉ 20cm và vết mòn chỉ vừa lằn bánh xe, một bên là vách núi dựng đứng, một bên là vực sâu ngàn thước thăm thẳm.

Xe chạy qua, đất đá rơi lạo xạo rồi mất hút. Đường vừa đi qua, ngoái lại đã thấy mỏng te ngoằn ngoèo như sợi chỉ giữa trập trùng núi non và mờ ảo trong sương. Sơ sẩy là tan xác. Nhưng Nhiệm lại tự hào: đây là con đường thanh niên, do Đoàn thanh niên bản Suối Lóng làm cách đây hai năm với hơn 60 bạn trẻ làm ròng rã trong hai tháng để thông với Sài Khao.

“Bạt núi thành đường, gian nan lắm nhưng có con đường bản làng ta đi lại được, đưa con heo, con gà, bí ngô ra phố huyện” - Nhiệm nói. Bí ngô và bí xanh (bí đao) ở Sài Khao là loại giống đặc biệt từ ngàn đời chưa bị lai tạp, bởi người Mông dù di cư đến đâu cũng mang theo con giống bên mình, kể cả chó và heo, nổi tiếng nhất là giống lợn ỉ. Ông Phạm Bá Điểm - người Mường, phó chủ tịch huyện Mường Lát - cho biết lợn ỉ trong làng cứ thả lông nhông, đến mùa tết bà con mang ra huyện bán được 150.000 đồng/kg hơi. Đây còn gọi là “lợn cắp nách”, đặc sản khi về xuôi.

Sau hơn hai giờ dò dẫm trên con đường kinh hoàng 8km từ bản Suối Lóng với những vực sâu thăm thẳm và vách núi lừng lững, bất ngờ trước mắt hiện ra một thung lũng nhỏ chìm khuất trong sương với những mái nhà bạc thếch. Nhiệm quăng xe nằm vật ra đất thở phì phì: đã đến Sài Khao! Tiếng chó sủa tong tóc nghe ấm áp. Sài Khao lừng danh bé bỏng và yên bình đến thế.

Bản nghèo bình yên

Bản có 74 hộ, toàn người Mông. Bao nhiêu nhân khẩu thì ông trưởng bản chịu, không biết. Nhà ông cũng là số ít có tường gạch, nền ximăng. Góc nhà chất đầy 60 bao lúa. Lúa ở đây tính bao, không tính ký. Diện tích canh tác cũng không tính bằng sào, bằng hecta. Giàng A Sùng - con trai ông trưởng bản, sinh năm 1986, đã có vợ và ba con, từng đi bộ đội đóng ở Kon Tum - cho biết: “Nhà ta trồng 60 ký lúa nương, 30 ký ngô”. Cũng phải, tính sao được khi một hốc núi, một vạt đất cũng cắm hạt lúa, hạt ngô đợi ngày ra bông ra trái.

Ngày chủ nhật nên Vàng A Căng - một trong tám học sinh đang học ở trường huyện - về bản. “Bản ta đã có năm người học xong cấp III, có Vàng A May là người đầu tiên đang học ở Đại học Hồng Đức” - A Căng tự hào. Nhà Vàng A Căng có bảy anh em, ba người được đi học.

Nhưng số được đi học như anh em nhà A Căng không nhiều. Hai vợ chồng Vàng A Dơ và Sùng Thị Chu (26 và 25 tuổi) đã có ba con vẫn chưa biết chữ, dù Trường tiểu học Sài Khao chỉ cách nhà một hàng rào. Tục tảo hôn vẫn còn nặng ở vùng này. Một em bé gái lấp ló nhìn khách lạ, A Căng bảo: “Nó tới tuổi sắp lấy chồng rồi, thích ai thì về ở với người đó thôi”. Đó là Vàng Thị Dúa, 12 tuổi. Cô bé có đôi mắt sắc và gò má ửng hồng, đỏ lựng như trái cà chua.

Bản nghèo, nghèo quá! Có cái ăn như nhà Vàng A Sùng không phải là nhiều. “Bí, ngô làm ra nhiều đấy nhưng chỉ để cho lợn ăn vì không có đường đi, không bán được” - ông Phạm Bá Điểm nói. Bí ngô ở chợ Mường Lát bán 10.000 đồng/kg, một trái chừng 3-4kg. Xe máy chở ra chợ mỗi lần được chừng 5-7 quả nhưng tiền xăng đã ngốn gần hết. Trâu, bò, lợn thì cứ thả rông, mùa lạnh lăn ra chết. Thế nhưng nhà nào cũng có chiếc xe máy. “Nghèo thì nghèo, ta vẫn cố lấy con xe làm cái chân mà đi” - Vàng A Dơ phân trần. Trước cửa nhà A Dơ là chiếc cối xay bằng đá to đùng còn vương vãi bột ngô mới xay dùng làm mèn mén, món ăn hằng ngày, sền sệt như hồ.

Con nít ở Sài Khao lăn lóc quẩn quanh trong bản. Mùa đông lạnh ngăn ngắt, sương mù quện quanh dày đặc, có đứa tồng ngồng không mặc quần, mũi dãi lò thò. Thương nhất là những bé gái chừng 5-6 tuổi đã cõng em ngoặt ngoẹo ngủ trên lưng, cả chị cả em đều phong phanh áo xống. Chỉ những cô thiếu nữ biết làm dáng mới mặc váy hoa sạch sẽ. Váy người Mông là một tuyệt tác, rực rỡ như đàn bướm hoa, đỏ ối pha lẫn vàng cam, trong cơn gió lạnh lùa về phảng phất khói sương như ngọn lửa làm bản làng ấm áp.

Sài Khao, tên bản đẹp và thân thương nhưng vẫn còn rất xa xôi và nghèo khó quá.

Hướng dẫn thêm: Lên Sài Khao, nếu đi theo đường Hồ Chí Minh, từ TP Thanh Hóa qua Cẩm Thủy, Hồi Xuân tới Mường Lát, đi khoảng 20km nữa sẽ tới Sài Khao. Còn theo hướng Mai Châu, Trung Sơn, Mường Lý, khi qua Mường Lý rẽ trái, đi khoảng 15-18km nữa thì đến. Mường Lát - Sài Khao đi rồi mới thấy nó còn hơn cả một cung đường tìm về với lịch sử. Và đó cũng là cung đường nơi trái tim tìm đến với trái tim... Thương lắm Sài Khao!

Tây Tiến

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Phù Lưu Chanh, 1948
QUANG DŨNG (Mây đầu ô, NXB Tác Phẩm Mới, Hà Nội, 1986)

Đoàn quân oai hùng Tây Tiến

Mường Lát, Sài Khao là hai địa danh trong bài Tây Tiến của Quang Dũng (phía cực tây Thanh Hóa, giáp biên giới Lào), người lính trong trung đoàn 52 Tây Tiến. Bài thơ này ông viết năm 1948. Số phận bài thơ lận đận như cuộc đời ông. Hiện nay bài Tây Tiến được đưa vào sách giáo khoa lớp 12 và còn được tạc vào bia đá đặt tại tượng đài nghĩa trang liệt sĩ Tây Tiến ở Mai Châu, Lạc Sơn (Hòa Bình).

< Người du kịch Lương Văn Pém của đoàn quân năm xưa.

Đoàn quân Tây Tiến thành lập tháng 2-1947, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp đích thân phân công về phía Tây Bắc, tiến về mạn Sơn La, Hòa Bình, tây Thanh Hóa, giáp biên giới Lào là Hủa Phăn, Xiêng Khoảng để phong tỏa, ngăn chặn ý đồ của quân Pháp đánh chiếm từ Lào qua, chiếm thế “cứ cao lâm hạ” uy hiếp các tỉnh từ Lai Châu đến Thanh - Nghệ và đặc biệt là thực hiện âm mưu “dĩ Việt chế Việt”, chia rẽ và lập lực lượng lính Việt thiểu số đánh người Việt.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, trung đoàn Tây Tiến tiếp tục lên đường vào Nam làm nhiệm vụ giải phóng đất nước và sau đó làm nghĩa vụ ở nước bạn Campuchia. Đoàn quân này đã sản sinh ra những danh tướng trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc như Đại tướng Văn Tiến Dũng, huyền thoại bắn súng hai tay như một Tạ Đình Đề...

Theo Tuổi Trẻ Xuân, ảnh internet
Du lịch, GO!

Đăng nhận xét